Đang thực hiện
  • Hotline
  • Doanh nghiêp & Đầu tư
  • Giấy phép và SHTT
  • Sổ đỏ & Hôn nhân
Văn phòng
(0243) 795 7776
0962 547 449 - 0904 445 449
Văn phòng
(0243) 795 7779
0962 547 449 - 0904 445 449

Chia tài sản chung sau khi ly hôn

Thời gian đăng: 17/11/2014 11:57

Chia tài sản chung sau khi ly hôn là vấn đề vô cùng phức tạp. Nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi của vợ và chồng. Có những cặp vợ chồng ly hôn vấn đề tài sản không có gì nhưng có những cặp vợ chồng có điều kiện thì tài sản sau khi ly hôn rất phức tạp và cần được giải quyết công bằng, thuận tình cả đôi bên.

Chia tài sản sau ly hôn

VẤN ĐỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG SAU KHI LY HÔN

  •  Xác định khối tài sản chung của vợ chồng:
Luật HN&GĐ năm 2000 quy định chế độ tài sản chung của vợ chồng như sau:
- Tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân;
- Thu nhật về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác hoặc không chứng minh được là tài sản riêng.
- Tài sản do vợ hoặc chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung hoặc cả hai thỏa thuận đó là tài sản chung.
Tài sản chung của vợ chồng bao gồm các khoản sau:
- Tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền hưu trí, các thu nhập về sản xuất ở gia đình và các thu nhâp hợp pháp khác của vợ chồng, không phân biệt thu nhập của mỗi bên.
- Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được từ thu nhập nói trên.
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Để xác định chế độ tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải căn cứ vào nguồn gốc phát sinh và thời điểm hình thành tài sản. Theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 thì tài sản chung của vợ chồng bao gồm: “Tài sản do vợ, chồng tạo ra, tu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.”
Ngoài ra, tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng thu nhập nói trên, tiền tiết kiệm là tài sản chung của vợ chồng gửi ở ngân hàng, những khoản nợ mà vợ chồng đã vay trước đó sử dụng vào đời sống chung cần phải trả, những khoản nợ mà vợ chồng cho người khác vay có quyền đòi,... các tài sản chung của vợ chồng phải là tài sản đó hiện còn trong gia đình tại thời điểm Tòa án giải quyêt cho vợ chồng ly hôn.
Riêng đối với tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận phải ghi tên sở hữu của cả hai bên vợ chồng. Tài sản đó có thể là quyền sử dụng đất (QSDĐ), ô tô, xe máy, tàu biển,... Quy định này tạo điều kiện thuận lợi để vợ chồng chứng minh đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của mình.
Trong các loại tài sản trên thì Quyền sử dụng đất, nhà ở là loại tài sản mang nét đặc thù riêng. Nó thường là tài sản có giá trị lớn hoặc đem lại thu nhập chính cho vợ chồng nên khi ly hôn thường xảy ra tranh chấp. Vì vậy Tòa án cần phải xác định rõ nó là tài sản riêng hay tài sản chung vợ chồng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
  • Chia tài sản chung sau khi ly hôn
Theo quy định tại Điều 219 BLDS năm 2005 và Khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ thì “tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất”. Do vậy, tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do hai bên cùng tạo ra một cách trực tiếp, không phụ thuộc vào công sức đóng góp giữa vợ chồng nhiều hay ít.... Mà do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân nên pháp luật luôn ghi nhận công sức đóng góp để xác định tài sản chung của vợ chồng là “như nhau”, vợ chồng có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản một cách bình đẳng. Vì vậy, khi ly hôn về nguyên tắc pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Như vậy, về nguyên tắc: Phần của vợ chồng trong khối tài sản chung là bằng nhau, không phân biệt công sức đóng góp nhiều hay ít của mỗi bên.
            Khi xác định rõ ràng về tài sản chung, Tòa án áp dụng khoản 2 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 để chia. Tại Điểm a Khoản 2 Điều 95 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc học tập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập”. Tòa án cũng xem xét nguyên tắc chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Điều  27 Luật HN&GĐ năm 2000 và Điều 233 BLDS năm 2005 để chia. Để đảm bảo tính công bằng không phải trường hợp nào Tòa án cũng chia đôi tài sản vì còn phải xem xét vào công sức đóng góp của mỗi bên. Có nghĩa là phải xem xét tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản gì, nguồn gốc phát sinh tài sản, tài sản có thể chia được bằng hiện vật hay không? Vợ chồng kết hôn và chung sống với nhau trong thời gian bao lâu? Vợ chồng cùng cư trú hay cư trú ở những nơi khác nhau? Ai là người có công sức đóng góp nhiều hơn, ai là lao động chủ yếu trong gia đình, tài sản có công sức đóng góp của người thứ 3 không? Xác định rõ các khoản nợ mà vợ chồng nợ người khác hoặc người khác nợ vợ chồng, các nghĩa vụ tài sản chung mà vợ chồng cần phải thanh toán trước khi ly hôn,...
            Luật còn xem xét đến việc “bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị dị tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”. Việc bảo vệ này cũng phải dựa trên cơ sở của pháp luật, không tùy tiện.
Ví dụ, Khi chia tài sản chung sau khi ly hôn là nhà ở, xét thấy cả vợ chồng đều có nhu cầu cấp bách về nhà ở, người vợ lại được giao nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên... thì có thể chia ngôi nhà cho người vợ sở hữu, người chồng sẽ được chia những tài sản khác theo công sức đóng góp của họ.
            Việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn còn phải “bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động có thu nhập”, vấn đề này được quy định tại Điểm c khoản 2 Điều 95. Tùy theo tính chất nghề nghiệp chuyên môn của vợ chồng, khi chia tài sản của vợ chồng phải bảo đảm được giá trị, công dụng của tài sản, phù hợp với nghề nghiệp của họ nhằm phát huy tính năng của tài sản trong sản xuất kinh doanh. Cần tránh việc chia tài sản của vợ chồng làm mất đi công dụng và giá trị của tài sản. Ví dụ: Giết thịt trâu bò, phá vỡ nhà cửa...
            Tài sản chung của vợ chồng còn được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị. Bên nào nhận được phần nhiều tài sản có giá trị hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia giá trị chênh lệch.
            Ngoài ra trên thực tế, trong thời kỳ hôn nhân, vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng vay nợ người khác nhằm bảo đảm các nhu cầu thiết yếu cho gia đình (Điều 25, 27) thì được xác định là nợ chung và khi ly hôn, tài san chung của cả hai vợ chồng được bảo đảm để thanh toán các khoản nợ chung đó. Trên thực tế, sau khi ly hôn, vợ chồng ly tán thường gây khó khăn cho việc thanh toán các nghĩa vụchung, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ 3. Do đó, khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 đã xác định khi ly hôn vợ chồng thỏa thuận thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp vợ chồng thỏa thuận với nhau thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ về tài sản hoặc tẩu tán tài sản thì thỏa thuận đó vô hiệu.
Nghị định số 70/2001/NĐ – CP đã quy định khá chi tiết, cụ thể về chia tài sản là nhà ở hoặc Quyền sử dụng đất,... Đối với từng trường hợp cụ thể, Tòa án áp dụng các quy định của pháp luật để có thể giải quyết một cách đúng đắn, hợp tình , hợp lý.
Tên của bạn (*)
Email (*)
Nội dung thông điệp (*)
Vui lòng nhập vào nội dung !
Mã ngẫu nhiên (*) captcha Vui lòng nhập vào mã ngẫu nhiên