- Hotline
- Doanh nghiêp & Đầu tư
- Giấy phép và SHTT
- Sổ đỏ & Hôn nhân
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Thời gian đăng: 17/11/2014 10:11
Do đặc tính vô hình của quyền sở hữu nhãn hiệu cho nên các chủ thể quyền sở hữu nhãn hiệu không thể thực hiện quyền chiếm hữu đối với nhãn hiệu. Đó chính là lý do cơ bản dẫn đến tình trạng xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu phổ biến và ngày càng gia tăng như hiện nay. Hệ thống pháp luật SHTT bên cạnh các quy định về xác lập quyền, nội dung quyền của các chủ thể quyền sở hữu nhãn hiệu còn có các quy định liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.
1. Xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu:
- Cơ sở xác định hành vi xâm phạm nhãn hiệu:
Theo quy định tại Điều 5, nghị định 105/2006/NĐ – CP, hành vi bị xem xét bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu khi có đủ các căn cứ sau đây:
- Đối tượng xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ quyền SHTT. Đối tượng bị xem xét là đối tượng bị nghi ngờ và bị xem xét nhằm đưa ra kết luận đó có phải là đối tượng xâm phạm không (khoản 7 Điều 3, Nghị định 105/2006/NĐ – CP. Việc xác định đối tượng được bảo hộ được thực hiện bằng cách xem xét các tài liệu, chứng cứ chứng minh căn cứ phát sinh, xác lập quyền quy định tại Khoản 1 Điều 6 Nghị định 105/2006/NĐ – CP. Đối với nhãn hiệu, căn cứ để xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu là Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hoặc Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam.
- Có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét. Yếu tố xâm phạm là yếu tố được tạo ra từ hành vi xâm phạm. Cụ thể, yếu tố xâm phạm là sản phẩm, quy trình hoặc một phần, một bộ phận cấu thành sản phẩm hoặc quy trình được tạo ra từ hành vi xâm phạm (khoản 4, 5, Điều 3 Nghị định 105/2006/NĐ – CP). Theo khoản 1, Điều 11 Nghị định 105/2006/NĐ – CP thì: “Yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu là dấu hiệu gắn trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch, biểu hiện, phương tiện quảng cáo và các phương tiện kinh doanh khác, trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với dấu hiệu được bảo hộ”. Để xác định một dấu hiệu bị nghi ngờ có phải là yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu hay không, cần phải so sánh dấu hiệu đó đối với nhãn hiệu, đồng thời phải so sánh sản phẩm, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ. Chỉ có thể khẳng định có yếu tố xâm phạm khi đáp ứng cả hai điều kiện sau đây:
Dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ; trong đó, một dấu hiệu bị coi là trùng với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có cùng cấu tạo, cách trình bày (kể cả màu sắc); một dấu hiệu bị coi là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có một số đặc điểm hoàn toàn trùng nhau hoặc tương tự đến mức không dễ dàng phân biệt với nhau về cấu tạo, cách phát âm, phiên âm đối với dấu hiệu, chữ, ý nghĩa, cách trình bày, màu sắc và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu.
Hàng hóa, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự về bản chất hoặc có liên hệ về chức năng, công dụng và có cùng kênh tiêu thụ với hàng hóa, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ.
Người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ sở hữu nhãn hiệu và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định tại Điểm b, khoản 2 Điều 125 Luật SHTT. Đó là các trường hợp các chủ thể mặc dù không phải là chủ sở hữu nhãn hiệu, người được chủ sở hữu nhãn hiệu trao quyền nhưng có quyền sử dụng nhãn hiệu thông qua các hành vi như lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm được đưa ra thị trường, kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp.
Hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam. Hành vi bị xem xét xũng bị coi là xảy ra tại Việt Nam nếu hành vi đó xảy ra trên mạng internet nhưng nhằm vào người tiêu dùng hoặc người dùng tin tại Việt Nam.
Hàng hóa, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự về bản chất hoặc có liên hệ về chức năng, công dụng và có cùng kênh tiêu thụ với hàng hóa, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ.
Người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ sở hữu nhãn hiệu và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định tại Điểm b, khoản 2 Điều 125 Luật SHTT. Đó là các trường hợp các chủ thể mặc dù không phải là chủ sở hữu nhãn hiệu, người được chủ sở hữu nhãn hiệu trao quyền nhưng có quyền sử dụng nhãn hiệu thông qua các hành vi như lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm được đưa ra thị trường, kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp.
Hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam. Hành vi bị xem xét xũng bị coi là xảy ra tại Việt Nam nếu hành vi đó xảy ra trên mạng internet nhưng nhằm vào người tiêu dùng hoặc người dùng tin tại Việt Nam.
2. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu:
Theo Khoản 1, Điều 129, Luật SHTT năm 2005 các hành vi được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu bao gồm:
- Sử dụng nhãn hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ cùng với hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó. Một nhãn hiệu bị coi là trùng nếu có cùng cấu tạo, cách trình này, kể cả màu sắc (Điểm a, Khoản 3, Điều 11, Nghị định 105/2006/NĐ – CP). Phạm vi để so sánh trong trường hợp này là hàng hóa trùng với hàng hóa thuộc mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu. Nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ trùng với nhãn hiệu của hàng hóa cùng loại, cùng danh mục đăng ký kèm theo trước đó là một dấu hiệu xâm phạm tới quyền sở hữu nhãn hiệu của chủ thể đăng ký trước.
- Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ. Trường hợp này, phạm vi so sánh là hàng hóa, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ được bảo hộ nếu như việc sử dụng dấu hiệu trùng đó có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa đó.
- Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng, tương tự hoặc liên quen tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ. Một nhãn hiệu được coi là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có các đặc điểm trùng nhau hoặc tương tự đến mức không dễ dàng phân biệt với nhau về cấu tạo, cách phát âm, phiên âm đối với dấu hiệu chữ, ý nghĩa, cách trình bày, màu sắc gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về hàng hóa mang nhãn hiệu.
- Sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hóa, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hóa, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên quan đến hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.
Các tin tức cùng chuyên mục: